Hồ sơ xin ly hôn bao gồm:
- Chứng minh thư nhân dân và sổ hộ khẩu của vợ và chồng ( bản sao công chứng)
- Giấy đăng ký kết hôn (bản chính)
- Nếu đã có con thì có giấy khai sinh của con
- Giấy tờ về tài sản nếu có yêu cầu Tòa án phân chia.
Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn:
Toà án sẽ thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Trong trường hợp nếu không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng của hai người; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp hai vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án nhân dân không thành, Tòa án xét thấy hai vợ chồng tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, cũng như về quyền trực tiếp nuôi con, nuôi dưỡng, cũng như chăm sóc con, giáo dục con thì Toà án nhân dân công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; trường hợp không thỏa thuận được hoặc đã thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án sẽ quyết định.
Trường hợp khi một bên vợ hoặc người chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án nhưng không thành thì Toà án nhân dân sẽ xem xét, giải quyết việc ly hôn.
Hoà giải khi ly hôn:
Nhà nước cũng như xã hội khuyến khích việc hoà giải ở cơ sở khi hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hoà giải sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về hoà giải ở cơ sở.
Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, thì Toà án sẽ tiến hành hoà giải theo đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Căn cứ cho ly hôn:
- Khi một trong hai bên yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án nhân dân sẽ xem xét, giải quyết việc ly hôn. Căn cứ tại khoản 1 điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nếu xét thấy tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, và mục đích hôn nhân không đạt được thì Tòa án sẽ quyết định cho hai người ly hôn.
- Trong trường hợp vợ hoặc là chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án nhân dân sẽ giải quyết cho ly hôn.
Lưu ý:
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, giải thích:
a. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Hai người đã không thương yêu, chăm sóc, quý trọng, giúp đỡ nhau như người nào biết bổn phận người đó, bỏ mặc người còn lại muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Một trong hai người có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, thường xuyên đánh đập, hoặc là có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Hai vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, và đã được người vợ hoặc là người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc những cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có mối quan hệ ngoại tình;
b. Để Tòa án có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, cần phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ hoặc của chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm 1 ở trên. Nếu thực tế thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng người đó vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc là vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
c. Mục đích của hôn nhân là không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn
0 Nhận xét