Khi ly hôn thì việc yêu cầu giải quyết tranh chấp về tài sản chung và quyền nuôi con sẽ khó tránh khỏi. Tuy nhiên thì hai bên đương sự cần hiểu rõ quyền lợi của mình trước khi đưa ra yêu cầu nhằm đảm bảo quyền lợi và tránh yêu cầu trái quy định, nội dung này được luật sư tư vấn cụ thể như sau:

Như tranh chấp về tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tranh chấp về nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con và những vấn đề khác liên quan.

Chỉ cần nhấc điện thoại và gọi: 0902 703 0730978 463 987 sau khi được kết nối bạn sẽ được luật sư Luật TDV sẽ tư vấn và giải đáp pháp luật về Hôn nhân gia đình như: Kết hôn, về ly hôn, về tài sản chung, riêng vợ chồng, quyền nuôi con, và cấp dưỡng nuôi con... hướng dẫn những thủ tục hành chính hôn nhân gia đình và giải đáp vấn đề khác liên quan:


Thứ nhất Quan hệ pháp luật về con chung được quy định như sau:

- Sau khi ly hôn, hai bố mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi con, trông nom, chăm sóc,  giáo dục con chưa thành niên, con đã đến tuổi thành niên lại mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản riêng để tự nuôi mình 

Vợ, chồng sẽ là hai người thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp nếu như hai bố mẹ không thỏa thuận được thì TAND sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào những quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Con dưới 36 tháng tuổi thì sẽ được giao cho người mẹ là trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con, trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con cái hoặc cha mẹ có những thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

- Cha, mẹ một trong hai người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con; Sau khi ly hôn, thì người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ là không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom con cái để cản trở hoặc gây ra những ảnh hưởng xấu đến việc trông nom và chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu TAND hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Cha, mẹ là trực tiếp nuôi con sẽ có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Cha, mẹ người trực tiếp nuôi con cùng với các thành viên gia đình không được có hành vi cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định TAND có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sẽ được giải quyết khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con đã không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.


Thứ hai về Quan hệ về tài sản.


- Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu hai bên không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, hoặc của chồng hoặc  hai vợ chồng, TAND giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình 2014.

- Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận nhưng không rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân gia đình 2014 để giải quyết.

- Tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi nhưng có tính đến yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, của chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, cũng như duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình sẽ được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ những  lợi ích chính đáng của mỗi bên trong kinh doanh, sản xuất và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, cũng như nghĩa vụ của vợ chồng.

- Tài sản chung được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì sẽ chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

- Tài sản riêng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

- Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, của con chưa thành niên, đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để nuôi mình.

- Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật Hôn nhân gia đình 2014 và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết.